Tản mạn chuyện làng tranh Đông Hồ

doduc
1 – Vào giữa nhưng năm 1980 lần đầu tôi về làng tranh Đông Hồ. Lúc ấy người làm tranh lèo phèo, còn đâu vài ba nhà là ông Chế, ông Tấn, và ông Sam. Ông Chế nổi nhất vì ông làm việc tại nhà xuất bản Văn hóa, có giao lưu rộng, còn hai ông kia chỉ ở trong làng, ít giao thiệp.
Lần ấy tôi gặp cụ Phùng Đức năng đang vẽ tranh Tứ phủ cho điện thờ hầu bóng. Cũng bấy giờ tôi mới được xem tranh “ dối” và tranh “kỹ” theo giải thích của cụ. Thì cũng tranh đó, diện tích bằng nhau, tranh dối ba mươi đồng, còn tranh kĩ giá một trăm năm mươi đồng. Người Đông Hồ rất rành rẽ tiền nào của ấy. Qủa tình xem tranh ba mươi đồng thấy hay rồi, nhưng đến tranh một tram năm mươi đồng thì mới thấy hết vẻ đẹp lung linh của Tứ Phủ. Cùng một người vẽ mà hai tranh chất lượng khác nhau một trời một vực vì công sức và vật liệu bỏ ra cho từng tranh khác nhau.
Mãi lúc ấy tôi cũng mới biết người Đông Hồ bỏ non nửa thời gian trong năm làm tranh tết, còn lại thì làm đồ mã. Vì đồ mã dính đến mê tín dị đoan nên người ta làm mà không khoe thôi. “ Tháng 8 giỗ cha, tháng Ba giỗ mẹ” ( Đức thánh Trần và bà chúa Liễu Hạnh) đó là khoảng thời gian người ta dành cho làm đồ mã. Những năm ấy, người làng Đông Hồ chủ yếu sống bằng nghề mã, còn tranh lèo tèo vì chỉ có Xunhasaba đặt hàng xuất sang khối Đông Âu mà tiêu thụ nhiều nhất ở Đức. Trong nước thì dùng tranh tết in cuốn thư câu đối ngũ quả của nhà xuất bản Văn hóa, nó bề thế quây quanh bàn thờ gian chính diện. Còn tranh Đông Hồ hầu như không thấy nhà nào dán tường. Tranh Đông Hồ lúc ấy có loại 30×40, và loại lá mít nhỏ chừng20x30. Có chăng chỉ thấy tranh trong thơ Hoàng Cầm viết : “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong /Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.
Từ chống Mỹ và sau ngày thống nhất là thời gian hí hóp nhất của tranh Đông Hồ. Nó có dấu hiệu tàn lụi nhưng không mất hẳn dù sự lấn lướt của các loại tranh in bề thế mà giá cũng rẻ, phù hợp với trang trí. Nhưng nó vẫn có chỗ đứng khi nó còn bán được thông qua Xunhasaba đưa ra nước ngoài.
2 – Tôi cất giữ được một số bức tranh Đông Hồ in bán xuất khẩu từ trên nửa thế kỉ trước do tổ sản xuất tranh mà ông Sam làm tổ trưởng. So với tranh Đông Hồ trên thị trường hôm nay thì không khác gì câu chuyện tôi kể về tranh dối kĩ của cụ Phùng Đức Năng . Tranh thời ấy màu chắc như cua gạch, dày dặn, no màu và nhất là sắc thắm thì hơn hẳn. Có lẽ do chất lượng từ giấy điệp, cách chế màu kĩ lưỡng, độ đậm đặc… Nói chung tranh hôm nay không được đằm thắm như một thời đã qua.
Có lần tôi hỏi một nghệ nhân: Liệu ông có in được tranh như cách đây bốn năm chục năm không, ông ấy bảo được, thừa sức làm. Nhưng nếu in thế thì công và vật liệu đắt hơn mấy lần. Tờ tranh giờ hai nghìn, in kĩ phải sáu nghìn mà bán chậm…Hai nghìn người ta vẫn chấp nhận và thu tiền ngay, sáu nghìn thì chờ đến bao giờ mới gặp người mua? Cái lý thật dễ hiểu. Đồng tiền tươi dù nhỏ vẫn kịp thời hơn đồng tiền to phải chờ. Tôi gặng bảo: hay là bác cứ in lấy vài chục bộ chất lượng cao, giá gấp ba đi, và cứ giới thiệu vơi khách, ai cầu kì thích họ vẫn mua…Dần dần mặt hàng chất lượng người mua sẽ đông lên ổn định giá cao thì làng nghề mới không mai một.
Ông ấy không chịu làm! Chẳng thể gì thuyết phục được với tính cách tiểu nông, một đồng ăn chắc còn hơn ba đồng chờ đợi. Với tôi người yêu tranh Đông Hồ cảm thấy thất vọng về sự thoả mãn non kém này quá. Như thế là tự làm yếu mình đi bới tính thực dụng. không gì giết nghệ thuật nhanh bằng tính thực dụng và thói quá hám tiền.
3 – Nghệ thuật dân gian vốn xuất phát từ nhu cầu cuộc sống vùng miền và nó luôn bám sát nhằm thỏa mãn nhu cầu cuộc sống để tồn tại. Đó là cái đặc trưng rõ nhất của loại nghệ thuật này.
Trong trên một trăm mẫu tranh dân gian còn lại hôm nay thì thực ra, theo cách nhìn của tôi thì chỉ có chừng ba chục tranh khởi đầu có giá trị đặc biệt.
Đó là Đại cát- Nghi xuân, là Nhân nghĩa- Tri lễ, là Vinh hoa- Phú quý, đó là gà đàn, lợn đàn, lợn âm dương, lợn độc, lợn ăn lá giáy…Là hứng dừa- đánh ghen, là Thày đồ cóc , là Đám cưới chuột…Những bức tranh hướng vào những điều sâu thẳm trong lương tri, hướng đến lễ nghĩa, phản ánh ước vọng cũng như sự nhắc nhớ về đạo lý sống nhân văn. Những bức tranh khởi thủy đều có triết lý sâu xa , luôn hướng đến cái lớn lao ước vọng và nhân quả đời người.
Tiếp sau đó dòng tranh biến đổi dần, xa dần cái gốc triết lý sang phản ánh, phê phán như : Trai tứ khoái- gái bảy nghề, đăng- xinh,Phong tục cải lương- Văn minh tiến bộ, Kim ngân phá lề luật ( thời pháp tạm chiếm), và trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp thì chuyến sang cổ động cho chính sách: Bình dân học vụ, tăng gia sản xuất, vừa sản xuất vừa chiến đấu,thời đánh Mỹ thì Tấm áo mẹ vá năm xưa, vẽ theo lời một bài hát, rồi Quan họ, thuyền hát, chùa Bút tháp… nói chung là chuyển sang hẳn ngạch tuyên truyền, chấp nhận sự sống của tranh ngắn hạn, phục vụ nhu cầu kịp thời trước mắt. Những tranh dân gian chứa đầy ắp tính thời sự này có đời sống rất ngắn so với thế hệ đầu tiên.
Về hình thức thì lối vẽ và dựng hình không còn như khởi thủy, nghệ nhân bắt chước lối vẽ trường sở, cố diễn tả thực nhưng hình méo mó, đường nét mảng miếng không còn tính ước lệ. Nói chung tinh thần thì dân gian nhưng hình thức và nội dung đã sang một khúc ngoặt khác, khác hẳn triết lý ban đầu của dòng tranh này. Nó đã tự diễn biến thay đổi theo thời cuộc.
Thế hệ đầu tiên của tranh dân gian thì tranh không phải để trang trí, mà nhằm dạy triết lý sống. Phong cách rất rõ ràng, rất khái quát, nét vẽ thì chắc nịch của người thợ dân gian tài ba. Ở những tranh đó, chữ nghĩa hàm ý sâu xa, ngàn năm không cũ. Còn những tranh kế tiếp cách đây dăm bảy mươi năm thì hình thức bị cuốn theo thời cuộc nhằm mục đích phục vụ cổ động cho tinh thần xã hội ngay lúc đó, tính thực dụng không giấu diếm, không còn là gửi gắm dạy dỗ văn hóa sống như khởi thủy của nó.Nhìn những bức tranh khởi thủy, ta nhận ra cuộc sống yên bình, nhưng sau đó thì từ thwoif chống Pháp và Mỹ thì xã hội xốc xáo, cuộc sống nhộn nhạo hiện lên trong từng trang dù tuyên truyền ca ngợi hay phê phán thì cũng vậy.
Lần về Đông Hồ cùng tôi năm 2002, cố giáo sư Gérald Goridge của trường đại học Angulem ở Bordeux ( Cộng hòa Pháp) sau khi nghe tôi giới thiệu, ông bảo “ … Đây là làng tranh rất đặc biệt nhất mà tôi thấy. Bởi mỗi bức tranh là một bài học thông qua một câu chuyện có tính chất răn dạy làm người ”. Và rồi, sau suy ngẫm , bất ngờ ông giới thiệu với nhà xuất bản Kim Đồng một dự án về vẽ truyện tranh theo cảm hứng từ những tranh Đông Hồ. Nếu dự án đó được khai thác thì sẽ có bộ sách đặc biệt cho các em nhi đồng, mẫu giáo khai tâm phần nhân văn, việc cần nhất cho sự phát triển của con người trước khi bước vào đời. Đáng tiếc Nhà xuất bản chưa kịp nắm bắt để trôi qua một cơ hội.
Đông Hồ hôm nay người làm tranh cũng khuất dần. Ông Tấn và ông Sam đều mất. Nay chỉ còn con ông Sam theo nghề cha. Cơ sở của ông Nguyễn Đăng Chế thì hình thành công ty và phần sản xuất tranh, kinh doanh chủ yếu chỉ còn chỗ ông và các con. Một số lẻ tẻ khác thì không đáng kể và nhiều nhà cũng từ giã nghề tranh. Mộc bản cũ thì ông thu mua lại từ những gia đình bỏ nghề. Ngoài ra ông còn phát triển nghề đục ván tranh, và bán luôn tranh ván, chính là nghề gia truyền của dòng họ ông. Cách làm đó rất hay, không đẻ nghề đục ván thất truyền và có sản phẩm hấp dẫn cho du lịch đẻ giới thiệu văn hóa.
Bây giờ điểm đến của du lịch làng tranh Đông Hồ là cơ sở bề thế của công ty ông Nguyễn Đăng Chế. Tranh từ cơ sở ông Chế không chỉ có ở Hà Nội mà còn ở cả Yên Tử, Đà Nẵng và Sài gòn. Một nghề làm tranh dù chỉ còn như cái mầm nhỏ nhoi nhưng nó vẫn còn sức sống bền vững bởi nhưng người còn làm cố giữ nghề và khơi sâu thị trường. Nhưng tôi thiển nghĩ, nếu từ tờ giấy , cục điệp và màu in chế hôm nay mà chất lượng cao như một thời đã qua thì bảo đảm sức sống của thể loại dân gian này sẽ vũng vàng bền lâu, còn nếu để chất lượng thụt lùi đi thì không biết thế nào!14/8/2019