Những gì còn nhớ (11)

Họa sĩ Anh Thường
Ông tên là Anh Thường
Vâng, tên rất thường, nhưng nghề thì không thường mà khá bất thường.
Ông nằm trong bộ ba Lưu Yên- Anh Thường-Hoàng công Luận được ưu ái tiễn ra trường sớm, không có bằng tốt nghiệp. Lí do: tìm tòi quá sơm, vẽ quá mới, không theo đúng quy thức trường sở.
Láng máng hình như các ông cũng dính dấp tí chút vào cái vụ án không hồi kết là Nhân văn Giai phẩm gì đó. Chả biết thực hư thế nào.
Thời gian ấy, Hiệu trưởng trường Cao đẳng Mĩ thuật Hà Nội là cố họa sĩ giáo sư Trần Đình Thọ rất nghiêm khắc.
Tôi nghe nói dưới thời Giáo sư, chừng20 họa sĩ đã được đưa ra khỏi trường vì sớm bộc lộ cá tính. Sớm “dậy thì” tìm tòi, đến nỗi đi chệch ra ngoài đường biên giáo án. Hình như các ông đã được đi đày với cái tên khá mĩ miều: đi ” thực tế” ở Quảng Ninh, về với than, với giai cấp công nhân để cải tạo tư tưởng .
Các ông không bao giờ nói về những chuyện đó. Tất cả chỉ là dư luận nên đúng sai chả biết thế nào.
Tôi biết ông khi ông trở thành cộng tác viên vẽ tranh truyện của Nhà Xuất bản Văn hóa Dân tộc . Lúc đó ông đang làm việc ở  Xưởng phim đèn chiếu Trung ương.
Trong các họa sĩ vẽ tranh chuyện, ông là người hoạt bút nhất.
Dưới tay ông, cây bút lông trở nên linh hoạt lạ thường. Cuốn truyện tranh 36 trang ông vẽ chỉ mất chừng một tuần vào những giờ tranh thủ.
Những năm sau ngày thống nhất đất nước đời sống họa sĩ khổ hơn thợ cày vì luôn thiếu đói. Được mời vẽ tranh chuyện đó là niềm hạnh phúc nhất, được có tiền nhuận bút vá vào tấm áo lương bổng rách rưới. Lương cơ bản của họa sĩ có bằng đại học chắt chiu cũng chỉ tiêu hơn tuần là hết.
Cùng thời với ông, các họa sĩ Nguyễn Bích, Đỗ Xuân Doãn, Anh Thường, Phạm Công Thành, Nguyễn Thụ, Huy Óanh,Huy Toàn , Trọng Kiêm, Nguyễn Mỹ, hoàng Hào, Nguyễn văn Bổng… đều là những cây bút tranh truyện lão luyện. Lúc đó được vẽ tranh truyện là coi như có thêm hũ gạo dự phòng trong nhà. Lúc ấy có ai nghĩ đến ngày có tranh bán cho Tây. Các họa sĩ đều giống anh công chức, đói lử cò bợ. Làm gì giàu có như một số họa sĩ đàn em lứa sau! Lúc ấy, tranh vẽ xong là bỏ đấy, có người mượn treo là hạnh phúc lắm rồi.
Anh Thường vẽ tranh truyện nhanh như đóng gạch.
* * *
Ở nước ta không ai coi trọng tranh truyện. Tranh truyện luôn bị coi là sách cho trẻ con, trong khi Man- ga ở Nhật có doanh số chỉ kém mặt hàng điện tử, xếp doanh thu thứ hai hoặc thứ ba trong nền kinh tế. Ở họ, tranh cho nhi đồng,thiếu niên, người lớn người già, tranh hướng dẫn khoa học kĩ thuật…bao nhiêu là loại khác nhau. Đến bây giờ quan niệm ở ta truyện tranh là cho trẻ con ấy vẫn không thay đổi. Bây giờ nhà xuất bản Kim Đồng gần như là nhà xuất bản duy nhất làm truyện tranh.
Các họa sĩ vẽ tranh truyện cũng bị tâm lí coi thường truyện tranh chi phối. Lại thêm nhuận bút giá bèo nên họa sĩ cũng không cố công tìm tòi làm gì, miễn nhà xuất bản chấp nhận duyệt in là xong. Có những cuốn truyện tranh vẽ như minh họa nhạt nhèo. Mà có thay đổi cũng chưa chắc được chấp nhận. Người ta thường quen chấp nhận với những giá trị đã được khẳng định, sợ sự thay đổi và không ưa sự phản biện. Tuy vậy lại có thể chấp nhận rất nhanh sự ăn theo, hoặc theo đuôi thế giới, nên ông Doremon mới có thời làm nên núi tiền cho nhà xuất bản Kim đồng khi nó được đem từ Nhật về biên dịch lại để phát hành. Bây giờ thái độ đó với xã hội vẫn không thay đổi. hu hu
Như vậy đấy, vì những quan niệm nhợt nhạt ấu trĩ về một loại hình có sức lan tỏa như thế nên nghề vẽ truyện tranh không mấy hấp dẫn họa sĩ.
* * *
Anh Thường là người tài hoa. Gía như ở các nước Âu châu tôi chắc ông sẽ là họa sĩ lớn về tranh truyện, nhưng ở ta vẽ tranh truyện là nghề còi cọc trên mảnh đất cằn cỗi nên mãi không lớn lên được. Khi có cơ hội kiếm tiền khá hơn là họa sĩ sẵn sàng bỏ vẽ tranh truyện ngay.

Ba họa sĩ trong lứa xuất chuồng sớm không biết đến mảnh bằng Đại học nhưng các ông đều là những tay bút cự phách, có cá tính, mỗi người mỗi kiểu.Sau này tôi mới hiểu ra các ông đều là những họa sĩ chịu đọc sách, kiến thức rộng. Lứa các ông đều có tiếng Pháp nên sách về nghệ thuật Âu châu các ông đều có thể đọc tham khảo, các trường phải hội họa qua các giai đoạn các ông đều nắm được nên khi cầm bút sáng tác mỗi nhát bút đặt lên toan lên giấy đều có đủ tự tin vào nghề mình theo đuổi.

Từ lâu tôi vẫn ngầm coi Anh Thường như một người Thày, dù luôn gọi ông là anh!.
Một lần vào nhà xem tranh giấy dó tôi vẽ. Ông ngắm hồi lâu rồi bảo: cậu vẽ được lắm. Tôi hỏi “được” là sao? Ông cười ruồi: không biết thật sao. Tôi gật đầu. Thấy thế ông bảo: Cậu nắm rất chắc cặp phạm trù triết học về “sự thống nhất giữa hai mặt đối lập” và thể hiện thành công trên tranh. Đây này giữa cái thật và cái ảo của cậu gắn bó khăng khít, quyện vào nhau tôn vinh nhau, khiến cho tranh có sức sống, truyền được cảm xúc được cho người xem. Cái ảo làm cho cái thật lung linh sinh động, cái thật làm cho cái ảo trở nên có tiếng nói. Nghề vẽ cần nhớ rằng thật quá là mị đời/ ảo quá là dối đời đều phải tránh.
Rồi ông ví von: cánh tay rắn chắc bởi có xương ở trong làm  ” cốt” và bọc bên ngoài là da thịt mềm mại… Thử tưởng tượng nếu như không có xương thì còn là cánh tay không? Lúc ấy tay chỉ là đống thịt bèo nhèo, còn xương chỉ là khúc gỗ cứng nhắc…
Tôi mơ màng nghe ông phân tích về cặp phạm trù quan trọng trong thể hiện tác phẩm và hiểu ra rằng đó là âm và dương, dù là màu hay hình hoặc khoảng trống trong tranh thì cũng vậy. Quy luật này làm cho thuận mắt người xem. Sau này tôi vẽ dần trở nên dễ dàng vì hiểu được bản chất của tạo hình là như vậy. Cái đó đâu đã biết được ở trong nhà trường dù đã học triết học mĩ học chung chung.

Lứa ông, thì ông là người kì tài nhất trong xử dụng mực nho trên giấy Dó. Chỉ vài ba nhát bút là thấy ngay thuyền bè bập bềnh trên sông nước, lẩn trong khói sương mờ ảo đẹp đến mê hồn. Tuy vậy ông vẫn coi nghề vẽ như là trò chơi. Ông thích ngao du với bạn bè, thích chia sẻ. Đôi lúc ông cũng tìm tòi cho mình những cách thể hiện mới. Ông thường bảo: Vẽ nhẵn, vẽ sốp, vẽ đắp, thế giới người ta làm hết cả rồi. Kĩ thuật nào mà không đưa người xem tiếp cận và đối thoại được với người xem đều là thất bại! Hình như ông ngộ ra điều gì đó như một qui luật trong nghề nên mới tìm được sự bình yên như thế.
Trong các họa sĩ thuộc lứa đàn anh, với tôi, ông là người có cặp mắt xanh trong năng lực cảm nhận và đánh giá tác phẩm. Nhìn tranh ông có thể chỉ ngay ra những khiếm khuyết hoặc tôn vinh các giá trị với sự phân tích bằng vài lời ngắn gọn mà đầy sức thuyết phục.
Vậy mà đời ông chưa thấy được mời vào Ban giám khảo hay Hội đồng nghệ thuật lần nào.
Lâu nay ít gặp ông. Vẫn biết ông đi mây về gió sống thoát tục, không tham gia vào chuyện chính trị, không ham hố bất kì cái gì và hay cười vui. Ông đã tìm được sự yên bình sau những sóng gió đầu cuộc đời. Như con chim bị tên, ông lặng lẽ giữa đời như một thuật sĩ của nghề. Không để lại tác phẩm lớn nào.  Ông đã chọn cách hòa lẫn vào đời thường. Nếu đúng là thế thì cũng là cách lựa chọn không tồi trong cái thế giới đầy cạm bẫy trên mỗi bước đi.27/9/2013