Lan man chuyện lễ hội

dongngan
1 – Tháng giêng là tháng ăn chơi
Chuyện đó ăn vào tâm thức người Việt, khiến cho cái tết Việt vào thời hiện đại náo động khó hòa đồng bởi sự dềnh dàng, sống chậm, bởi cỗ bàn tiệc tùng hội hè triền miên…Khiến công việc như phải đứng ngoài cuộc chờ tan cơn say của các đấng mày râu và tan cơn mê của giới nữ nhi trong hội hè triền miên.
Phép vua thua lệ làng. Còn làng là còn hội. Cái làng quê bé nhỏ khép kín trong những hương ước. Lệ làng và văn hóa kép kín khiến nghìn năm bắc thuộc, văn hóa phương Bắc chỉ thập thò ngoài ngõ, không thấm được vào làng xã. Đó là cái ấm ức lớn nhất của thế lực xâm lược không xâm thực nổi nước Nam này, vì vậy mà không nuốt nổi nước Nam.
Nhưng như một quy luật đã chỉ ra: cái ưu điểm nào cũng có nhược điểm. Uưu điểm kéo dài nó sẽ thành cái khuyết điểm không kém tệ hại. Lệ làng thành cái vỏ ốc góp phần quan trọng bảo vệ văn hóa thì nó lại thành cản trở sự phát triển vì nó không chịu thay đổi. Có thể thấy là nó không chịu lớn lên, không lớn lên thì không phát triển, nó thỏa mãn với cái nó có và tự tại với cái trì trệ một cách mãn nguyện. Khi nó không chết sẽ làm cho xã hội cằn cỗi. Những tục lệ trở thành những cây bonsai cốt để ngắm nhìn gật gù thỏa mãn hơn là đem lại lợi ích lớn cho tinh thần xã hội.
2- Một lần ở quê, một bậc phụ huynh bảo tôi “ Văn hóa hội lễ châu thổ Bắc bộ là văn hóa Đông – Đoài. Tháng giêng từ Kinh Bắc, tháng 2 lan xuống Hưng yên, Hải dương, rồi Thái bình lan sang Quảng ninh, kết thúc ở đó vào tháng Năm để bắt đầu cho hội lễ ở vùng văn hóa Đoài là Sơn Tây Hà Đông . Đông chùa, Đoài đình là hai vùng văn hóa tiêu biểu của Bắc bộ mà các hội lễ nối nhau không trùng lặp ngày. Người ta có thể đi hội suốt nửa năm đấy”.
Đúng thế thật.
Cho đến bây giờ , tinh thần làng xã hiện ra trong các lễ hội vẫn đậm sắc thái níu kéo. Được nhà nước nới tay cho phục hồi, sau thời gian dài cấm đoán , những lễ hội đứt gẫy được khôi phục lại, kịch bản lơ mơ, người ta nhồi thêm nhiều thứ cho mùi mẫn, và không phải không có lễ hội mang tính lạm dụng hơn là phục hồi. Rồi cả những lễ hội của thời man dại cũng được kích hoạt trở lại như chém Lợn ở Ném Thượng, hành hạ trâu hoặc bạo lực cướp Phết ở Phú thọ, hoặc lễ hội phồn thực ở một số nơi cũng được phục hồi và cả thêm thêm phục chế mà chỉ thánh thần mới biết nó bị xuyên tạc thế nào, chứ chính quyền cũng bó tay. Cũng có nơi chính quyền yếu kém còn phụ họa thêm cho rôm rả, nhất là khi chính quyền tham gia chỉ đạo tổ chức và nhả vào đó chút ngân sách hoạt động thì chè chén nhậu nhẹt sẽ được phát huy đỉnh cao ngay.
Đã có nhiều lời kêu gọi trả lễ hội cho dân, để dân tự lo, không cần sự nhúng tay của chính quyền. Vậy sẽ gọn hơn. Nhưng thói quen quản lý ăn sâu vào lãnh đạo nhiều địa phương, cái gì cũng thích mó tay vào quản lý, nên chính quyền cũng cuốn theo hội lễ , khiến sự bê trễ công việc lan sang cả bộ máy công quyền vì hội lễ, trở thành một tệ nạn thực sự!
3 – Hàng năm các làng cổ Bắc bộ có hội chùa và hội đình . Hội chùa hay hội đình thì ngày đầu đều là giỗ tổ. Chùa thì giỗ sư tổ, đình thì giỗ thành hoàng. Sau đó là rước xách, và dân làng bỏ việc đi hội lễ phật lễ thánh. Hội chùa thì dân tứ xứ kéo về, nên thường có nhiều trò chơi và thiện nam tín nữ có cơ hội gặp nhau giao lưu văn hóa qua thơ ca, hát ví trong những tối nghỉ lại ở hậu chùa. Giao lưu này trong cách hội chùa chính là những lớp học sơ khai nhất trong đời sống dân dã khi chưa có trường lớp. Người ta thức thâu đêm trò chuyện trao đổi với nhau kĩ năng sống, ứng xử trong nhà ngoài ngõ… dù còn đơn sơ. Nhưng sự giao lưu này phần lớn ở lớp người già,của các nội tướng chứ đàn ông thì có việc ở đình chứ không dính gì đến chùa! và đó là sự tích lũy văn hóa sống để truyền cho con cháu của những người mẹ.
Nhiều hội có hát “tiến”, tuồng tiến, chèo tiến. Tiến là tiến dâng , như dâng lễ cho thánh thần cho phật. Những buổi hát “tiến” của bà con các nơi đem về góp với hội làng, hội đình đó có rất nhiều người dự để nghe. Không hội thì không bao giờ có những tiết mục này.
Tôi đã từng dự hội đình Đông Hồ cách đây mấy chục năm, được nghe một buổi hát “ tiến” của hai mẹ con người Bắc Giang. Mẹ đóng vai chủ nhà, con dâu đóng vai người ở chăn ngựa. Hai mẹ con diễn trước cửa đình hát về một trăm thứ cỏ bằng thơ lục bát. Tiếc là thời ấy chưa có máy ghi âm nên không ghi được bài hát dân gian đó. Sau vài năm, nghe bà mẹ đó mất, thế là bài hát trăm thứ cỏ bị thất truyền.
Làng tôi Ninh Hiệp chợ vải ở Gia Lâm Hà Nội hội chưa vào mùng Bốn đến mùng sáu tháng Hai, năm nào cũng có “tuồng tiến” ở làng Tấn Bào bên Bắc Ninh sang diễn dâng lên cửa phật. Những buổi như thế dân xúm đến xem những tích những vai diễn dù đã thuộc lòng, họ thướng tiền cho diễn viên. Còn diễn viên coi những đồng tiền thướng đó như lộc phật, trân trọng không vì được nhiều hay ít. Tưồng tiến, hát tiến trước đình đền chùa chỉ xảy ra vào dịp lễ hội chứ tuyệt nhiên cửa đình cửa chùa ngày thường không bao giờ được làm sân diễn văn nghệ . Chính quyền cũng không bao giờ tự tiện cho diễn ở những nơi đó, vì đấy là chỗ linh thiêng của làng xã.
Câu “ ăn tùy nơi, chơi tùy chốn” chính là câu chuyện này.
Hầu hết tuồng tiến, hát tiến kể cả hát chèo tàu đều mang đậm chất văn hóa dân gian, vẻ đẹp con người , giàu có của đất nước hoặc về ứng xử, kể về cái hay cái đẹp cái nhân ái cái con người với . Còn tuồng chèo thì diễn theo tích những chuyện nhân văn có tính giáo dục cao chứ không hận thù khích bác chia rẽ..
4 – Hôm chủ nhật 28/2 vừa qua tại đền Ngọc Sơn hồ Gươm, bất ngờ có cuộc trình diễn Văn nghệ tại sân đền.
Tôi chắc đó là nhã ý của Sở văn hóa Hà Nội, muốn tổ chức vui cho công dân thủ đô và khách thập phương vào ngày chủ nhật, chứ không phải là hát tiến ngày hội đền trước cửa thánh.
Ban đầu tôi thấy có hát văn, múa cờ. Nghe hát tưởng lên đồng, nhưng khi thấy đến bốn năm cây cờ múa thì hiểu ra họ đang diễn.
Sau đó thấy có quan họ. Chấm dứt quan họ thì một ca sĩ mặc trang phục quân đội lên hát bài” Cô gái vót chông”.
Bài hát một thời sôi động trong chiến tranh chống Mĩ “ Ai nhanh tay vót bằng tay em/ chim hót không hay bằng tiếng hát em/ mỗi mũi chông nhọn sắc căm thù/ xuyên thây quân cướp nào qua đây, chôn thây quân cướp nào qua đây. Khi còn giặc Mỹ cọp beo/ khi còn giặc mỹ cọp beo/ em chưa ngừng tay vót chông làm cạm bẫy…” Tôi bị lôi đi trong không khí oán hờn đầy sát khí. Tự nhiên thấy rùng mình. Tỉnh ra hiểu rằng ban tổ chức văn nghệ ở đây đã phạm vào hai điều tối kị: Một là lấy sân đền làm sân khấu diễn văn nghệ, không phải sinh hoạt hát tiến của hội đền là không được phép/ hai là bài hát đầy hận thù chém giết , khi cuộc chiến đã lùi xa đến 41 năm, đó là điều tối kị trước cửa đền tôn nghiêm trong tháng tết.
Tôi không trách ca sĩ, vì họ được mời diễn cho khách thập phương nhưng về tổ chức diễn kiểu này là sự vi phạm thuần phong mĩ tục , về chính trị thì quả là thất thố, mất mặt trước khách nước ngoài đầy trong đó.
Làm văn hóa như này của quận Hoàn Kiếm, mà rộng ra là Sở văn hóa Hà Nội quả là kém, cần phải xem lại. Không phải trên đất đền chùa, chính quyền cứ muốn làm gì thì làm. Dù mục đích có thể tốt nhưng cách tổ chức nội dung như vậy là nhộm nhoạm tùy tiện rất dở. Hơn nữa lại xâm phạm di tích. Điều đó rất đáng quan ngại!
29/2/2016